Khái niệm marketing của Edmund Jerome McCarthy
Tiểu sử:
Edmund Jerome McCarthy (20 tháng 2 năm 1928 – 3 tháng 12 năm 2015) là một giáo sư và tác giả tiếp thị của Mỹ
Nhận bằng Cử nhân Khoa học vào năm 1950 từ Đại học Northwestern . Ông đã nhận bằng Thạc sĩ Nghệ thuật vào năm 1954 [4] và tiến sĩ năm 1958 từ Đại học Minnesota . Luận án tiến sĩ của ông là Phân tích về Sử dụng Nghiên cứu Tiếp thị trong Phát triển Sản phẩm .
Ông là một giáo sư của Trường Cao đẳng Thương mại tại Đại học Notre Dame , [7] [8] đầu năm 1956, nơi ông giảng dạy các khóa học về cách thống kê và toán học áp dụng cho các vấn đề kinh doanh.
Vào mùa xuân năm 1959, trong khi là giáo sư của trường Cao đẳng Thương mại, ông được thông báo rằng ông đã nhận được một học bổng Ford Foundation một năm tại Trường Kinh doanh Harvard và Viện Công nghệ Massachusetts . Bắt đầu từ tháng 9, ông tập trung vào các ứng dụng toán học cho kinh doanh, như là một phần của chương trình của Quỹ nhằm “tăng cường giáo dục và nghiên cứu kinh doanh”, và đặc biệt là làm việc trên các mô hình toán học để tiếp thị.
Nhà tiếp thị E. Jerome McCarthy đề xuất phân loại 4P vào năm 1960, từ đó đã được sử dụng bởi các nhà tiếp thị trên toàn thế giới.
Thể loại | Giải thích | Cần trả lời các câu hỏi | |
Product
Sản phẩm |
Một sản phẩm được xem như là một món để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nó là một hàng hóa hữu hình hoặc một dịch vụ vô hình. Sản phẩm hữu hình là những vật mà có một sự tồn tại vật lý độc lập. Ví dụ điển hình của sản xuất hàng loạt, các đối tượng hữu hình là những chiếc xe hơi, động cơ và dao cạo dùng một lần. Các sản phẩm bảo hiểm, thanh toán qua ngân hàng là một dịch vụ vô hình.
Mỗi sản phẩm có một vòng đời sống bao gồm các giai đoạn : giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn trưởng thành và giai đoạn suy thoái. Các nhà tiếp thị phải nghiên cứu kỹ về vòng đời của sản phẩm mà họ đang tiếp thị, tập trung chú trọng vào những thách thức khác nhau phát sinh như các sản phẩm di chuyển vòng đời của nó. |
Thiết kế sản phẩm – tính năng, chất lượng
Phân loại sản phẩm – phạm vi sản phẩm, hỗn hợp sản phẩm, dòng sản phẩm Xây dựng thương hiệu Đóng gói và dán nhãn Dịch vụ (dịch vụ bổ sung, dịch vụ hậu mãi, mức dịch vụ) Bảo lãnh và bảo đảm Trả về Quản lý sản phẩm qua vòng đời |
Khách hàng muốn điều gì từ sản phẩm/dịch vụ của chúng ta? Cần những gì để thỏa mãn điều đó?
Kích cỡ, màu sắc? Tên gọi của sản phẩm? Làm thế nào để khác biệt chúng với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh? |
Place
Kênh phân phối |
Phân phối là cung cấp sản phẩm tại một địa điểm thuận tiện cho người tiêu dùng. Chiến lược khác nhau như phân phối chuyên sâu, phân phối có chọn lọc, phân phối độc quyền và nhượng quyền thương mại có thể được sử dụng bởi các nhà tiếp thị để bổ sung cho các khía cạnh khác nhau của marketing mix.
Đại diện cho các địa điểm mà một sản phẩm có thể được mua. Nó thường được gọi là các kênh phân phối. Nó có thể bao gồm bất kỳ cửa hàng vật lý cũng như các cửa hàng ảo trên Internet. Việc cung cấp sản phẩm đến nơi và vào thời điểm mà khách hàng yêu cầu là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của bất kỳ kế hoạch marketing nào. |
Các chiến lược như phân phối thâm canh, phân phối có lựa chọn, phân phối độc quyền [21]
Nhượng quyền thương mại ; [22] Thị trường bảo hiểm Lựa chọn thành viên kênh và quan hệ giữa các thành viên kênh Phân loại Quyết định vị trí Hàng tồn kho Vận tải, kho bãi và hậu cần |
Khách hàng có thể tìm thấy sản phẩm/dịch vụ của bạn ở đâu?
Hình thức bán hàng nào bạn lựa chọn: ban hang truc tuyen hay trực tiếp tại cửa hàng, siêu thị Làm thế nào để bạn thâm nhập được vào kênh phân phối phù hợp? Bạn có cần một đội ngũ bán hàng hay không? Đối thủ của bạn làm ai? Và bạn có thể học được gì từ những họ? hay tạo ra sự khác biệt với họ như thế nào? |
Price
Giá |
Giá cả là số tiền khách hàng trả cho sản phẩm. Giá cả rất quan trọng vì nó sẽ quyết định lợi nhuận và sau đó là sự sống còn của công ty. Điều chỉnh giá có tác động sâu sắc đến các chiến lược marketing, và tùy thuộc vào độ co giãn giá của sản phẩm, thường nó sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu cũng như doanh số. Các nhà tiếp thị nên thiết lập một mức giá mà bù đắp cho các yếu tố khác của marketing mix.
Khi thiết lập một mức giá, các nhà tiếp thị phải nhận thức được giá trị sản phẩm khách hàng cảm nhận được. Ba chiến lược giá cơ bản là: giá hớt váng thị trường, giá thâm nhập thị trường, và giá trung lập. “Reference value” (nơi người tiêu dùng tham khảo đến giá cả của các sản phẩm cạnh tranh) và “Differential value” (quan điểm của người tiêu dùng về các thuộc tính của sản phẩm này so với các thuộc tính của các sản phẩm khác) phải được đưa vào tính toán. |
Chiến lược giá
Chiến thuật giá Định giá Các khoản phụ cấp – ví dụ như giảm giá cho nhà phân phối Giảm giá – cho khách hàng Điều khoản thanh toán – tín dụng, phương thức thanh toán |
Có thiết lập mức giá cho sản phẩm/dịch vụ trong khu vực này hay không?
Khách hàng có ý kiến về giá cả hay không? có cần tăng hay giảm giá để hợp với xu thế hay không? Chiết khấu như thế nào cho những khách hàng thương mại, hay cho từng phân khúc khách hàng cụ thể? |
Promotion: Tiếp thị truyền thông | Promotion (xúc tiến thương mại hoặc hỗ trợ bán hàng) là tất cả các phương pháp truyền thông một nhà tiếp thị có thể sử dụng để cung cấp thông tin về sản phẩm cho các bên khác nhau về sản phẩm. Chiêu thị bao gồm các yếu tố như : Quảng cáo, quan hệ công chúng, tổ chức bán hàng và xúc tiến bán hàng
Quảng cáo bao gồm bất kỳ sự truyền thông mà nó phải trả tiền, từ quảng cáo điện ảnh, quảng cáo phát thanh và quảng cáo Internet thông qua phương tiện truyền thông in ấn và biển quảng cáo. Quan hệ công chúng (PR – Public Relation) là nơi mà sự thuyền thông không phải trả tiền trực tiếp, và bao gồm : thông cáo báo chí, hợp đồng tài trợ, triển lãm, hội nghị, hội thảo, hội chợ thương mại và tổ chức sự kiện. Quảng cáo truyền miệng (Word-of-mouth) là bất kỳ thông tin không chính thức được nghe kể lại từ những cá nhân bình thường về sản phẩm, sự hài lòng của khách hàng. Nhân viên bán hàng thường đóng một vai trò quan trọng trong quảng cáo truyền miệng và quan hệ công chúng. Hỗ trợ bán hàng là tất cả các hoạt động nhằm đảm bảo rằng khách hàng nhận biết về sản phẩm hay dịch vụ của bạn, có ấn tượng tốt về chúng và thực hiện giao dịch mua bán thật sự. Những hoạt động này bao gồm quảng cáo, catalog, quan hệ công chúng và bán lẻ, cụ thể là quảng cáo trên truyền hình, đài phát thanh, báo chí, các bảng thông báo, đưa sản phẩm vào phim ảnh, tài trợ cho các chương trình truyền hình và các kênh phát thanh được đông đảo công chúng theo dõi, tài trợ cho các chương trình dành cho khách hàng thân thiết, bán hàng qua điện thoại, bán hàng qua thư trực tiếp, giới thiệu sản phẩm tận nhà, gởi catalog cho khách hàng, quan hệ công chúng |
Khuyến mại hỗn hợp – cân bằng thích hợp quảng cáo, PR, tiếp thị trực tiếp và xúc tiến bán hàng
Chiến lược thông báo – những gì sẽ được truyền đạt Chiến lược kênh / phương tiện – làm thế nào để tiếp cận đối tượng mục tiêu Tần suất Thư – tần suất truyền thông |
Ở đâu và khi nào bạn có thể truyền thông điệp marketing của mình đến thị trường mục tiêu?
Bạn sẽ tiếp cận khách hàng của mình theo hình thức nào? Thời điểm nào là thích hợp nhất để quảng bá sản phẩm? Chiến dịch theo mùa, theo các ngày lễ như thế nào? Đối thủ cạnh tranh đã sử dụng các biện pháp quảng cáo như thế nào để tương tác với khách hàng? |
Khái niệm Marketing Philip Kotler :
Tiểu sử : Philip Kotler sinh ngày 27 tháng 5 năm 1931 tại Chicago, Hoa Kỳ; là Giáo sư Marketing nổi tiếng thế giới; “cha đẻ” của marketing hiện đại, được xem là huyền thoại duy nhất về marketing, ông tổ của tiếp thị hiện đại thế giới, một trong bốn “Nhà quản trị vĩ đại nhất mọi thời đại” cùng với Peter Drucker, Fack Welch và Bill Gates (theo bình chọn của Financial Times). Ông là giáo sư của Trường Đại học Northwestern, Hoa Kỳ; là chuyên gia hàng đầu của Tập đoàn tiếp thị Kotler trong lĩnh vực hoạch định chiến lược marketing, và là giáo sư tại các trường đại học như Johnson & son, Viện Marketing Kellogg. Ông đã từng tư vấn cho nhiều chính phủ và các công ty nổi tiếng trên thế giới như IBM, General Electric, AT&T, Honeywell, Bank of America, v.v… Những nguyên lý và phương pháp tiếp thị của ông được tiếp nhận, áp dụng rộng rãi trong giới kinh doanh toàn cầu.[1]
Cái tên của Philip Kotler đã trở nên đồng nghĩa với tiếp thị, một chuyên gia hàng đầu của Kotler Marketing Group trong lĩnh vực hoạch định chiến lược marketing. Ông được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một chuyên gia cừ khôi trong lĩnh vực marketing, một thuyết trình viên cao cấp, tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 100 cuốn sách và bài báo chuyên về marketing và quản trị kinh doanh; trong đó có Marketing Management (ấn hành lần đầu năm 1967), một trong những cuốn sách kinh điển nhất của ngành tiếp thị và gối đầu giường giới quản trị kinh doanh thế giới. Những cuốn sách của ông đã được bán trên ba triệu bản bằng 20 thứ tiếng và được coi như kinh thánh về tiếp thị tại 58 quốc gia trên thế giới.
Philip Kotler tốt nghiệp Thạc sĩ Kinh tế tại Đại học Chicago và Tiến sĩ Kinh tế tại học viện Công nghệ Massachusetts (MIT), sau đó ông làm postdoc về Toán học tại Đại học Harvard và về Hành vi học tại Đại học Chicago. Ông nghiên cứu nhiều công trình về đề tài liên quan (Principles of marketing; Marketing models; Strategic marketing for non-profit organizations; The new competition; High visibility; Social marketing; Marketing places; Marketing for congregations; Marketing for hospitality and tourism; The marketing of nations; Kotler on marketing,…); và là người đầu tiên nhận giải nhà giáo dục tiếp thị xuất sắc (1985) của Hiệp hội Tiếp thị Hoa Kỳ (AMA).
Kotler là người đi tiên phong trong việc phổ biến khái niệm “marketing xã hội” (social marketing) và “trách nhiệm xã hội của marketing” – Những tư tưởng này có ảnh hưởng rất sâu rộng đến giới kinh doanh trên toàn thế giới trong suốt nhiều thập niên. Qua đó cũng đã góp phần xây dựng một nền kinh doanh nhân bản hơn và kiến tạo một xã hội toàn cầu tốt đẹp hoàn hảo hơn.[2]
Lý thuyết Marketing của Philip Kotler :
tiếp thị là một quá trình xã hội mà theo đó các cá nhân và nhóm có được những gì họ cần và muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi các sản phẩm và dịch vụ có giá trị tự do với người khác.
Chiến lược tiếp thị thời khủng hoảng
- Hiểu khách hàng mục tiêu và giải quyết những vấn đề của họ theo cách tốt hơn so với những đối thủ cạnh tranh;
- Xây dựng cam kết của nhãn hiệu và cam kết đó phải được truyền tải tới xã hội thông qua mọi thành viên trong mạng lưới kinh doanh của bạn (người làm thuê, nhà phân phối, nhà cung cấp);
- Liên tục cải tiến sản phẩm, dịch vụ và chuỗi cung ứng hàng hóa.[3]
Marketing hiện đại
- Nhu cầu đặc biệt của khách hàng ngày càng gia tăng;
- Các kênh truyền thông mới;
- Cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn;
- Vòng đời sản phẩm ngắn hơn;
- Luật pháp ngày càng chặt chẽ hơn.
Trách nhiệm xã hội của marketing
Marketing xã hội có thể được hiểu là việc truyền bá hình mẫu cuộc sống, giúp con người sống tốt hơn, khỏe mạnh hơn (thực phẩm an toàn, thể thao lành mạnh,…) hoặc tuyên truyền giúp con người từ bỏ các thói quen có hại cho sức khỏe (hút thuốc lá, sử dụng heroin,…). Các doanh nghiệp cần phân biệt rõ việc đáp ứng nhu cầu cá nhân và nhu cầu xã hội của người tiêu dùng. Ví dụ, hút thuốc lá có thể mang lại cảm giác mãn nguyện đối với một cá nhân nào đó, nhưng nó sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của những người xung quanh; và đương nhiên là điều đó tạo ra gánh nặng cho xã hội trong lĩnh vực chăm sóc y tế cộng đồng.
Tương lai của marketing
- Khuynh hướng lớn nhất – marketing luôn phải vận động để bắt mạch kịp nhu cầu của xã hội. Nhiều doanh nghiệp dành hẳn ra những bộ phận chuyên biệt để tham gia vào cuộc chiến thương hiệu;
- Xu hướng thứ hai – marketing ngày càng được định hướng theo góc độ tài chính, nghĩa là tiếp thị cần biết rõ nguồn lực đầu tư được phân bổ đi đâu, kênh phân bổ hàng hóa nào được coi là khả thi nhất và mang lại hiệu quả cao nhất để từ đó loại bỏ các kênh ít khả thi;
- Xu hướng thứ ba – marketing ngày càng mang tính kỹ thuật hơn. Các chuyên gia tiếp thị ngày càng có xu hướng sử dụng các bảng biểu mà thông qua đó, ai cũng có thể nhìn thấy tiến độ công việc diễn ra trong doanh nghiệp từng thời điểm (hàng ngày, hàng tháng, hàng quý,…).
Khái niệm Marketing của Laulerborn :
Robert F. Lauterborn là Giáo sư James L. Knight về Quảng cáo trong Trường học của Báo chí và truyền thông đại chúng tại trường đại học của bắc Carolina tại Chapel Hill, một chiếc ghế được phân biệt có thể thực hiện bằng một khoản tài trợ trị giá hàng triệu đô-la từ Quỹ Knight để “cải tiến việc giảng dạy quảng cáo”.
Giáo sư Lauterborn được công nhận là một nhân tố có ảnh hưởng trong nghiên cứu quảng cáo. Năm 1999, ông được trao giải GD Crain, Jr. (được đặt tên theo người sáng lập của Advertising Age) vì “đóng góp suốt đời để phát triển và cải tiến tiếp thị kinh doanh” và được giới thiệu trong Phòng Tiếp thị Tiếp thị Kinh doanh.
Giáo sư Lauterborn có lẽ được biết đến như một trong những người tiên phong của Truyền thông Tiếp thị Tích hợp. Ông là đồng tác giả của cuốn sách bán chạy nhất “Truyền thông Tiếp thị Tích hợp: Kéo nó lại với nhau và làm việc” (NTC, 1993), được dịch ra 13 thứ tiếng, và cuốn sách thứ hai có tiêu đề “Mô hình tiếp thị mới”. Trong cuộc điều tra năm 2001 Mỹ các nhà nghiên cứu và các cơ quan và các nhà thực hành ở phía khách hàng, cuốn sách của IMC được xếp hạng thứ 14 trong số những cuốn sách có ảnh hưởng đến nghiên cứu quảng cáo, và là cuốn sách số một trong số những cuốn sách được viết từ năm 1986.
Lauterborn’s 4 Cs (1990) [ sửa ]
Robert F. Lauterborn đề xuất một phân loại 4 Cs vào năm 1990. [31] Phân loại của ông là một phiên bản định hướng của người tiêu dùng nhiều hơn [4] [4] nhằm cố gắng để phù hợp hơn với phong trào từ tiếp thị đại chúng đến tiếp thị thích hợp : [31]
4 Ps | 4 Cs | Định nghĩa |
Sản phẩm | Người tiêu dùng muốn và nhu cầu | Một công ty sẽ chỉ bán những gì mà người tiêu dùng muốn mua đặc biệt . Vì vậy, các nhà tiếp thị nên nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng và nhu cầu để thu hút từng người một với cái gì họ muốn mua. [31] [33] |
Giá bán | Giá cả | Giá chỉ là một phần của tổng chi phí để đáp ứng nhu cầu hoặc nhu cầu. Tổng chi phí sẽ xem xét ví dụ như chi phí thời gian để có được một dịch vụ hay một dịch vụ, một chi phí lương tâm bằng cách tiêu hao hoặc thậm chí là một chi phí của tội lỗi “vì không điều trị cho trẻ em”. [31] Nó phản ánh tổng chi phí sở hữu. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chi phí, bao gồm nhưng không giới hạn ở chi phí của khách hàng để thay đổi hoặc triển khai sản phẩm hoặc dịch vụ mới và chi phí của khách hàng để không chọn sản phẩm hoặc dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. [34] |
Khuyến mãi | Giao tiếp | Trong khi quảng cáo là “lôi cuốn” và từ người bán, truyền thông là “hợp tác” và từ người mua [31] nhằm mục đích tạo ra một cuộc đối thoại với khách hàng tiềm năng dựa trên nhu cầu và lối sống của họ. [35] Nó thể hiện sự tập trung rộng rãi hơn. Truyền thông có thể bao gồm quảng cáo, quan hệ công chúng, bán cá nhân, quảng cáo virut và bất kỳ hình thức liên lạc nào giữa tổ chức và người tiêu dùng [ cần dẫn nguồn ] . |
Địa điểm | Tiện | Trong kỷ nguyên Internet, [33] danh mục, thẻ tín dụng và điện thoại, người ta không cần phải đi bất cứ đâu để thỏa mãn nhu cầu hoặc nhu cầu, cũng không giới hạn ở một vài nơi để đáp ứng. Các nhà tiếp thị nên biết thị trường mục tiêu muốn mua như thế nào, làm thế nào để có mặt ở đó và trở nên phổ biến, để đảm bảo thuận tiện cho việc mua . [31] [35] Với sự gia tăng của các mô hình mua bán Internet và hybrid, Place trở nên ít liên quan hơn. Thuận tiện có tính đến sự dễ dàng mua sản phẩm, tìm kiếm sản phẩm, tìm kiếm thông tin về sản phẩm, và một số yếu tố khác [ cần trích dẫn ] . |
Chính vì vậy, các chuyên gia marketing đã đưa ra khái niệm 4C và gắn các C này với các P theo từng cặp để lưu ý những người làm marketing đừng quên xem khách hàng là trọng tâm khi hoạch định các chiến lược tiếp thị. Các cặp P-C được “phối ngẫu” một cách có dụng ý này được thể hiện trong hình vẽ dưới đây:
- Chữ C đầu tiên – Customer Solutions(giải pháp cho khách hàng) được gắn với chữ P – Product (sản phẩm) thể hiện quan điểm mỗi sản phẩm đưa ra thị trường phải thực sự là một giải pháp cho khách hàng, nghĩa là nhằm giải quyết một nhu cầu thiết thực nào đó của khách hàng chứ không phải chỉ là “giải pháp kiếm lời” của doanh nghiệp. Muốn làm tốt chữ C này, doanh nghiệp buộc phải nghiên cứu thật kỹ để tìm ra nhu cầu đích thực của khách hàng, giải pháp nào để đáp ứng đúng nhu cầu này.
- Chữ C thứ hai – Customer Cost(chi phí của khách hàng) được gắn với chữ P – Price (giá) thể hiện quan điểm cho rằng giá của sản phẩm cần được nhìn nhận như là chi phí mà người mua sẽ bỏ ra. Chi phí này không chỉ bao gồm chi phí mua sản phẩm mà còn cả chi phí sử dụng, vận hành, và cả hủy bỏ sản phẩm. Chi phí này phải tương xứng với lợi ích mà sản phẩm đem lại cho người mua.
Cần hiểu lợi ích ở đây bao gồm cả lợi ích lý tính lẫn lợi ích cảm tính. Nhiều người đắn đo chưa mua ô tô không phải vì giá sản phẩm cao mà vì chi phí sử dụng quá cao (xăng dầu, phụ tùng, bảo dưỡng, bãi đỗ, tài xế…). Trong bối cảnh đó, các loại xe tiết kiệm nhiên liệu, phụ tùng rẻ và dễ dàng thay thế thường là giải pháp tốt.
- Chữ C thứ ba – Convenience(thuận tiện) được gắn với chữ P – Place (phân phối) đòi hỏi cách thức phân phối sản phẩm của doanh nghiệp phải tạo sự thuận tiện cho khách hàng. Điển hình của khía cạnh thuận tiện trong phân phối có thể kể đến mạng lưới máy ATM của các ngân hàng. Ngân hàng nào có nhiều máy, bố trí nhiều nơi, máy ít bị trục trặc khi rút tiền, ngân hàng đó sẽ có nhiều khách hàng mở thẻ.
- Chữ C cuối cùng – Communication(giao tiếp) được gắn với chữ P – Promotion (khuyến mãi, truyền thông) yêu cầu công tác truyền thông phải là sự tương tác, giao tiếp hai chiều giữa doanh nghiệp với khách hàng. Doanh nghiệp lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của khách hàng và “nói” cho khách hàng nghe là sản phẩm sẽ đáp ứng những tâm tư, nguyện vọng đó như thế nào. Một chiến lược truyền thông hiệu quả phải là kết quả của sự giao tiếp, tương tác giữa sản phẩm, thương hiệu với khách hàng để đạt được sự thông hiểu và cảm nhận sâu sắc từ khách hàng đối với sản phẩm, thương hiệu.
Không ít doanh nghiệp hiện nay thực hiện quảng cáo theo kiểu “tuôn ra xối xả” một chiều từ phía doanh nghiệp, bất chấp người tiêu dùng “tiêu hóa” được đến đâu. Nhiều thông điệp còn gây rối rắm, khó hiểu, thậm chí phản cảm cho khách hàng. Ở đây, công tác truyền thông đã không mang ý nghĩa giao tiếp, trao đổi thông tin giữa hai đối tượng.
Và như vậy, sẽ không bao giờ sản phẩm hay thương hiệu đạt được thiện cảm, nói chi đến đồng cảm, từ phía khách hàng. Kết quả là sản phẩm cùng với thương hiệu rất dễ bị khách hàng quên. Truyền thông giao tiếp hai chiều được các công ty chuyên nghiệp thực hiện thông qua việc lắng nghe phản hồi của khách hàng, phân tích phản ứng của khách hàng, và đo lường kết quả của các đợt truyền thông để có sự hiệu chỉnh cần thiết cho một phần hoặc toàn bộ chiến dịch.
Chắc chắn là sẽ còn cần nhiều chữ C hơn để thể hiện góc nhìn khách quan từ phía khách hàng thay cho góc nhìn chủ quan từ phía doanh nghiệp. Cho dù là 4P, 7P hay nhiều P hơn trong marketing ngày nay, thì mỗi chữ P đều cần gắn liền với một chữ C (Customer) để thể hiện quan điểm xuyên suốt là “hướng về khách hàng”. Không cách nào khác, doanh nghiệp phải lấy khách hàng làm trọng tâm để hoạch định chiến lược và triển khai các chương trình hành động ở mọi bộ phận của doanh nghiệp, không chỉ trong lĩnh vực tiếp thị.
Ở đâu không có thế độc quyền, không có sự áp đặt vô lý từ phía người bán đối với người mua, ở đó, mỗi chữ C sẽ là kim chỉ nam hành động cho doanh nghiệp để hướng tới thành công.